Ngày nay, bệnh mạch vành là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới. Ở các nước phát triển, với sự tiến bộ của kỹ thuật chẩn đoán và điều trị, ngoài điều trị nội khoa, can thiệp nong chỗ hẹp, đặt stent động mạch vành là những phương pháp rất hiệu quả. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp cần phẫu thuật; đặc biệt là phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, đã giúp làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành. Ngược lại, tỷ lệ này đang có xu hướng tăng lên ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành đã được thực hiện từ những năm 60 của thế kỉ 20 và đã cho những kết quả tích cực. Tĩnh mạch hiển và động mạch ngực trong là những mảnh ghép đầu tiên được chọn trong phẫu thuật bắc cầu. Trong đó, động mạch ngực trong được xem là lựa chọn hàng đầu cho phương pháp phẫu thuật này nhờ vào tính phù hợp về mặt mô học, chức năng với hệ mạch vành. Tuy nhiên, trên cùng một bệnh nhân có nhiều nhánh mạch vành cùng tổn thương, cuộc phẫu thuật đòi hỏi cần sử dụng nhiều hơn một mảnh ghép động mạch; hoặc trong suốt thời gian sống, bệnh nhân có thể phải trải qua nhiều hơn một cuộc phẫu thuật bắc cầu động mạch vành. Tại Việt Nam, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành đã được thực hiện thành công từ năm 1997. Nhưng cho đến nay, mảnh ghép động mạch chủ yếu vẫn là động mạch ngực trong và động mạch quay.
Chính vì vậy, GS. TS. Lê Văn Cường đã cùng các cộng sự tại Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu, mô học một số động mạch có thể ứng dụng bắc cầu trong điều trị bệnh lý động mạch vành” nhằm cung cấp thêm số liệu tham khảo về đặc điểm giải phẫu và mô học các động mạch có thể ứng dụng bắc cầu động mạch vành.
Sau khi nghiên cứu đặc điểm giải phẫu học, mô học của các động mạch ngực trong, động mạch quay, động mạch thượng vị dưới, động mạch vị mạc nối phải và nhánh xuống của động mạch mũ đùi ngoài cũng như theo dõi kết quả phẫu thuật có sử dụng động mạch ngực trong, động mạch quay và động mạch vị mạch nối phải bắc cầu để điều trị bệnh tắc hẹp động mạch vành tại bệnh viện Chợ Rẫy và Viện tim TP. HCM, đề tài có những kết luận sau:
1. Đặc điểm giải phẫu của 5 động mạch ứng dụng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành
a. Về chiều dài và đường kính các động mạch ở xác ướp formol:
– Động mạch vị mạc nối phải: 100% động mạch vị mạc nối phải có chiều dài ≥15cm, đường kính trung bình tại nguyên ủy là 2,98mm, và cách nguyên ủy 15cm là 2,01mm.
– Động mạch ngực trong: 87,14% động mạch ngực trong có chiều dài ≥ 15cm, đường kính trung bình ở nguyên ủy là 2,14mm và cách nguyên ủy 15cm là 1,66mm.
– Động mạch quay: 89,95% động mạch quay có chiều dài > 15cm, đường kính trung bình ở nguyên ủy là 2,55mm và cách nguyên ủy 15cm là 2,19mm.
– Nhánh xuống của động mạch mũ đùi ngoài: 60% nhánh xuống của động mạch mũ đùi ngoài có chiều dài ≥ 15cm, đường kính trung bình tại nguyên ủy là 2,70mm, và cách nguyên ủy 15cm là 1,57mm.
– Động mạch thượng vị dưới: 87% động mạch thượng vị dưới có chiều dài ≥ 15cm, đường kính trung bình ở nguyên ủy là 1,86mm, và cách nguyên ủy 15cm là 1,35mm.
– Chiều dài và đường kính các động mạch trên xác ướp và trên xác tươi không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
b. Về dạng các động mạch
– Động mạch ngực trong: 46,67% trường hợp động mạch ngực trong chung thân với thân giáp cổ, 1,67% trường hợp động mạch ngực trong chung thân với động mạch ngang cổ và động mạch trên vai.
– Động mạch vị mạc nối phải: tất cả đều xuất phát từ động mạch vị tá tràng, số nhánh vị dao động khoảng 13 đến 18 nhánh, trung bình khoảng 15 nhánh. Đề tài ghi nhận 1 trường hợp động mạch mạch vị mạc nối phải và trái không thông nối với nhau.
– Động mạch quay: ghi nhận 2 trường hợp xuất phát phía trên nếp gấp khuỷu.
– Động mạch thượng vị dưới: tất cả các trường hợp đều xuất phát từ động mạch chậu ngoài, cho nhiều nhánh nhỏ vào cơ thẳng bụng.
– Nhánh xuống động mạch mũ đùi ngoài: 1 trường hợp xuất phát từ động mạch đùi, có sự phân nhánh phức tạp.
2. Đặc điểm mô học của 5 động mạch ứng dụng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành
– Lớp áo giữa của động mạch quay, nhánh xuống của động mạch mũ đùi ngoài dày hơn 3 động mạch còn lại.
– Độ dày lớp áo trong của động mạch quay dày nhất, độ dày lớp áo trong của của động mạch thượng vị dưới mỏng nhất.
– Có hiện tượng tăng sinh nội mạc ở đầu xa của các động mạch so với vị trí nguyên ủy.
– Mức độ xơ vữa và mức độ tăng sinh nội mạc ở đầu xa của các động mạch quay, nhánh xuống của động mạch mũ đùi ngoài và động mạch ngực trong theo thứ tự là nhiều hơn so với động mạch vị mạc nối phải và động mạch thượng vị dưới.
Với kết quả chiều dài, đường kính và kết quả mô học thì thứ tự ưu tiên sử dụng các động mạch dùng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành là: động mạch ngực trong, động mạch quay, động mạch vị mạc nối phải, nhánh xuống động mạch mũ đùi ngoài. Riêng động mạch thượng vị dưới có chiều dài ngắn và đường kính nhỏ nên cân nhắc khi sử dụng.
3. Hiệu quả phẫu thuật bắc cầu động mạch vành có sử dụng động mạch ngực trong, động mạch quay và động mạch vị mạc nối phải:
– Qua ứng dụng các động mạch để bắc cầu động mạch vành cho thấy sử dụng cầu nối động mạch tốt hơn so với cầu nối tĩnh mạch.
– Kết quả sự thông suốt các động mạch dùng bắc cầu động mạch vành theo dõi trung bình 14 tháng là: động mạch ngực trong trái 100%, động mạch vị mạc nối phải 95,8%, động mạch quay 92,85%, động mạch ngực trong phải 91,3%, và tĩnh mạch hiển là 87,2%.
Qua nghiên cứu trên xác ướp formol, xác tươi, xem xét trên kết quả mô học và kết quả ứng dụng các động mạch dùng bắc cầu động mạch vành, đề tài kiến nghị, về mô học cần tiếp tục nghiên cứu trên các mẫu cắt từ bệnh nhân trong lúc mổ hoặc hoặc trên phẫu tích xác tươi sớm để tránh cấu trúc mô học bị phân hủy. Dựa trên kết quả về kích thước và mô học các động mạch, đề tài đề nghị sử dụng các động mạch để ghép thế theo thứ tự ưu tiên là: động mạch ngực trong, động mạch quay (vì dễ lấy), động mạch vị mạc nối phải, nhánh xuống động mạch mũ đùi ngoài, và cuối cùng là động mạch thượng vị dưới (vì kích thước nhỏ).
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 20654/2022) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Nguồn Vista.